Gia đình

Hà Nội khảo sát 6308 học sinh: 6,37% mắc rối loạn tăng động

Năm 2014, theo khảo sát của Bệnh viện Tâm thần Hà Nội ở 6.308 học sinh tiểu học và trung học cơ sở tại một số trường học trên địa bàn Hà Nội, cho thấy có 6,37% (tức là có 402/6308 học sinh) mắc rối loạn tăng động, giảm chú ý, cao nhất là ở trẻ 6 tuổi, chiếm 8,16% và thấp nhất là ở trẻ 14 tuổi, chiếm 2,12%.

Năm 2014, theo khảo sát của Bệnh viện Tâm thần Hà Nội ở 6.308 học sinh tiểu học và trung học cơ sở tại một số trường học trên địa bàn Hà Nội, cho thấy có 6,37% (tức là có 402/6308 học sinh) mắc rối loạn tăng động, giảm chú ý, cao nhất là ở trẻ 6 tuổi, chiếm 8,16% và thấp nhất là ở trẻ 14 tuổi, chiếm 2,12%.


 Ảnh minh họa. 


Nguyên nhân của chứng rối loạn tăng động giảm chú ý

BS Cao cấp Lý Trần Tình - Giám đốc Bệnh viện âm Thần Hà Nội cho biết, r ối loạn tăng động giảm chú ý là một rối loạn sức khỏe tâm thần ở trẻ em và có thể tiếp tục kéo dài ở thanh thiếu niên và người lớn. Rối loạn này xuất hiện ngay từ trước khi trẻ còn chưa đi học thường là trước 7 tuổi.

Với các nét đặc trưng như: nghịch luôn chân, luôn tay, không chịu ngồi yên, thường nói nhiều, không tập trung chú ý được lâu, thường hấp tấp, sốt ruột, kém chờ đợi và thường hay chen ngang vào công việc của người khác. Ngoài ra những trẻ này cũng thường dại dột, xung động, dễ bị tai nạn và bản thân chúng thường vi phạm các nội qui do không tôn trọng các quy tắc (vì thiếu suy nghĩ hơn là cố tình chống đối).

Những trẻ có biểu hiện như trên nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời sẽ gây ảnh hưởng đến học tập, cuộc sống hàng ngày như gặp trở ngại trong các mối quan hệ cha mẹ cũng như với mọi người xung quanh. Ở thanh thiếu niên có thể gây ra chống đối xã hội, ở người lớn có thể gặp khó khăn trong công việc.

Tỉ lệ mắc khá cao trong cộng đồng từ 3 – 10% ở lứa tuổi trẻ em. Trẻ trai bị nhiều hơn trẻ gái từ 4 đến 10 lần.

Nguyên nhân của chứng rối loạn tăng động giảm chú ý:

- Do tổn thương não: Mẹ hút thuốc lá, tiếp xúc với hóa chất độc hại, hoặc uống rượu khi có thai, bất thường cấu trúc não, nhiễm độc chì, sang chấn sản khoa, đẻ ngạt, đẻ non, vàng da, bệnh lý nhiễm trùng, nhiễm độc não sau sinh…

- Yếu tố di truyền.

- Yếu tố môi trường sống bất lợi như: Stress trong gia đình, bố mẹ mải mê làm việc, cách chăm sóc, giáo dục trẻ không đúng cách, trẻ bị cô lập xã hội,

- Nhân cách của trẻ.

- Các khó khăn trong học tập.

- Thiếu hụt kỹ năng sống.

Tóm lại có nhiều yếu tố tác động lên một trẻ có yếu tố sinh học không thuận lợi có thể làm bộc lộ các dấu hiệu của rối loạn ở những mức độ khác nhau.

Phân loại bệnh:

- Thể tăng động xung động chiếm ưu thế

- Thể giảm chú ý chiếm ưu thế

- Thể kết hợp: Trẻ có cả tăng hoạt động và giảm chú ý.

Khi phát hiện trẻ có dấu hiệu của chứng tăng động giảm chú ý cần cho trẻ đi khám chuyên khoa tâm bệnh để được đánh giá cụ thể và có hướng điều trị. Cách điều trị hiện nay chủ yếu vẫn là tâm lý liệu pháp kèm các biện pháp trị liệu. Việc trị liệu cho trẻ cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các nhà chuyên môn với gia đình và nhà trường. Cần áp dụng liệu pháp tâm lý kết hợp với giáo dục phù hợp.

Theo Phạm Minh (VnMedia.vn)