Dù trưởng thành trong sự yêu thương của gia đình nhận nuôi ở nước ngoài, nhiều trẻ em Việt Nam luôn day dứt với các câu hỏi về cội nguồn, quê hương và gia đình ruột thịt.
![]() |
Tanya Mai là một trong hàng nghìn người rời Sài Gòn trong chiến dịch Không vận Trẻ em vào tháng 4/1975. Ảnh: Telegraph |
Tanya là một trong hàng nghìn đứa trẻ rời khỏi Việt Nam trong chiến dịch Không vận Trẻ em (Operation Babylift) do chính phủ Mỹ thực hiện từ đầu tháng 4/1975. Sau khi rời Việt Nam, những đứa trẻ được đưa tới Mỹ (điểm đến chính) và những nước như Anh, Canada, Australia.
Trước khi nhận nuôi Tanya, gia đình Clarke đã có 3 người con khác là Ali, Linda và Nicky. Bố mẹ nuôi rất thương yêu Tanya. Họ đặt cho cô tên ở nhà gọi là Tawny. Sau 40 năm, Tanya trở thành một trong những họa sĩ nổi tiếng ở thành phố Belfast, thủ phủ của Bắc Ireland. Tuy nhiên, cô cũng trải qua hàng thập kỷ day dứt về thân phận và nguồn gốc bản thân.
![]() |
Trẻ em Việt Nam trong một chuyến bay của chiến dịch Babylift. Ảnh: SBS |
Tương tự với những dằn vặt của Tanya, cô Chantal Doecke (tên Việt Nam là Lê Thị Hà) cũng phải đối mặt với hàng loạt câu hỏi về thân phận trong những năm đầu làm con nuôi tại một gia đình ở Australia. Mẹ ruột của Doecke đã lặng lẽ rời khỏi bệnh viện Từ Dũ sau khi sinh. Doecke là một trong những trẻ mồ côi Việt Nam rời Sài Gòn vào những ngày đầu chiến dịch Babylift. Máy bay chở cô đáp tại sân bay Adelaide, Australia vào ngày 5/4/1975. Người mẹ nuôi Gillian Diggins đã đợi sẵn để đón Doecke. Khi đó, bé gái người Việt chỉ khoảng vài ngày tuổi. Năm tháng trôi qua, Doecke lớn lên trong sự yêu thương của gia đình Diggins. Tuy nhiên, cô chưa bao giờ thoát khỏi nỗi ám ảnh về việc bị mẹ đẻ bỏ rơi và về những người thân ruột thịt thực sự.
![]() |
Chantal Doecke, hay Lê Thị Hà (bìa trái), trong vòng tay của các anh chị em nuôi tại Australia. Ảnh: SBS |
Nỗ lực tìm về cội nguồn
Dana Sachs là một trong những người chuyên tâm tìm hiểu về hệ lụy từ chiến dịch Babylift. Năm 2010, nhà báo người Mỹ ra mắt cuốn The Live We Were Given (NXB Trẻ phát hành tại Việt Nam với tựa tiếng Việt là Những mảnh đời được ban tặng).
Khi tiếp xúc với những trẻ Babylift nay đều đã trưởng thành, bà Sachs nhận ra họ luôn biết ơn những bố mẹ nuôi người Mỹ. Tuy nhiên, họ vẫn canh cánh trong lòng về quê hương, người thân, bố mẹ đẻ...
![]() |
Lính Mỹ chăm sóc trẻ em Việt Nam tại sân bay trong chiến dịch Babylift. Ảnh: SBS |
Tanya đang nỗ lực xây dựng kinh phí thành lập quỹ hỗ trợ trẻ em khó khăn tại Sài Gòn. "Tôi đặt ra cho mình nhiều câu hỏi như, nếu không có chiến tranh, liệu tôi có sống ở Belfast, hoặc tôi tồn tại vì điều gì? Theo tôi, cuộc sống không có sự ngẫu nhiên. Mọi chuyện luôn có mục đích, và mục đích sống của tôi là để giúp đỡ người khác", Tanya nói. Khác với Tanya, Doecke không muốn đề cập nhiều đến nguồn gốc Việt Nam khi cô cố gắng hòa nhập với xã hội Australia. "Mẹ nuôi thỉnh thoảng khuyên tôi nên về nước và tìm lại gia đình. Tôi nói: 'Tại sao phải như vậy? Con đã có bố, mẹ và anh chị em rất tốt. Chuyện này không cần thiết'", Doecke nói.
![]() |
Chantal Doecke muốn các con biết về Việt Nam như một phần quê hương. Ảnh: SBS |
Trong những chuyến trở về Việt Nam sau này, Doecke luôn đi cùng chồng và các con. "Tôi nói với con rằng đây là nơi mà con cần phải biết, vì đây là nơi mẹ đã chào đời. Australia là nơi tôi lớn lên, nhưng Việt Nam mới thực sự là quê hương", Doecke nói.