Dự kiến tốc độ tối đa cho phép tham gia giao thông của xe cơ giới sẽ được tăng thêm từ 10 km/h so với hiện nay. Cơ sở để tăng tốc độ khai thác là do chất lượng cơ sở hạ tầng, ATGT tốt lên do được đầu tư bài bản.
|
Tốc độ tối đa cho phép xe cơ giới chạy trong khu vực đông dân cư có thể lên 60 km/h (Phương tiện chạy trên QL18 đoạn qua TP Uông Bí, Quảng Ninh) - Ảnh: K.Linh |
Cụ thể, tốc độ tối đa cho phép xe cơ giới tham gia giao thông trên đường trong khu vực đông dân cư là 60 km/h đối với đường đôi (có dải phân cách giữa) và đường một chiều có từ hai làn xe cơ giới trở lên; 50 km/h đối với đường hai chiều (không có dải phân cách giữa) và đường một chiều có một làn xe cơ giới. Quy định hiện hành là 40 - 50 km/h tùy loại phương tiện.
"Mỗi năm, Nhà nước đã phải bỏ ra hàng trăm nghìn tỷ đồng để đầu tư, nâng cấp hệ thống cầu đường. Chất lượng phương tiện cũng ngày càng được cải thiện; Công tác đào tạo, sát hạch lái xe được siết chặt, không có lý do gì để kìm hãm tốc độ xe lưu thông, khai thác hết tiềm năng, lợi thế của hạ tầng mang lại”. Ông Nguyễn Văn Thanh Chủ tịch Hiệp hội Vận tải ô tô Việt Nam |
Ngoài khu vực đông dân cư, theo dự thảo, tốc độ tối đa cho phép xe cơ giới tham gia giao thông được điều chỉnh tùy từng loại. Ô tô con, ô tô chở người đến 30 chỗ ngồi (trừ xe buýt); Ô tô tải có trọng tải đến 3,5 tấn có thể được chạy với tốc độ tối đa 90 km/h (đường đôi có dải phân cách giữa; Đường một chiều có từ hai làn xe cơ giới trở lên) và 80 km/h (đường hai chiều không có dải phân cách giữa; Đường một chiều có một làn xe cơ giới). Ô tô chở người trên 30 chỗ ngồi (trừ xe buýt); Ô tô tải có trọng tải trên 3,5 tấn có thể được chạy tối đa 80 km/h (đường đôi có dải phân cách giữa; Đường một chiều có từ hai làn xe cơ giới trở lên) và 70 km/h (đường hai chiều không có dải phân cách giữa; Đường một chiều có một làn xe cơ giới).
Ô tô buýt, ô tô đầu kéo kéo sơ-mi rơ-moóc, ô tô chuyên dùng, mô tô được quy định tốc độ tối đa lần lượt là 70 km/h và 60 km/h; Ô tô kéo rơ-moóc, ô tô kéo xe khác, xe gắn máy được quy định tốc độ tối đa lần lượt theo loại đường là 60 km/h và 50 km/h. Đối với các loại xe cơ giới khác như máy kéo, các loại xe tương tự, xe máy chuyên dùng và xe đạp máy, tốc độ tối đa không quá 40 km/h trên mọi đoạn đường, kể cả trường hợp có biển hạn chế tốc độ có giá trị lớn hơn 40 km/h (quy định hiện nay tối đa không quá 30 km/h).
Hạ tầng đường bộ được nâng cấp là cơ sở để tăng tốc độ khai thác (Trong ảnh: QL1 qua Thừa Thiên - Huế) - Ảnh: Ngô Vinh |
Chỉ tăng tốc độ tối đa trên những làn đường đủ tiêu chuẩn
“Việc điều chỉnh tăng tốc độ hoàn toàn theo thiết kế đường và sẽ không gây gia tăng TNGT. Sau khi điều chỉnh tốc độ, Bộ GTVT sẽ tăng cường các biện pháp quản lý bằng thiết bị công nghệ, giám sát hành trình để theo dõi, phân tích dữ liệu giao thông, hệ thống GSHT được hoàn thiện để quản lý doanh nghiệp vận tải hành khách và hàng hóa, hệ thống camera giám sát vi phạm trật tự ATGT được triển khai để tiến hành “phạt nguội” vào đầu năm 2016”, ông Huyện nói và cho biết, Tổng cục Đường bộ VN đã cập nhật các vụ TNGT, nhất là trên đường cao tốc, nguyên nhân chủ yếu là do lái xe xử lý các tình huống không đúng, không phải chạy quá tốc độ”, ông Huyện nói.
Trên các tuyến cao tốc, người điều khiển xe cơ giới, xe máy chuyên dùng phải tuân thủ tốc độ tối đa, tối thiểu ghi trên biển báo hiệu đường bộ, nhưng không vượt quá tốc độ tối đa cho phép là 120 km/h. Riêng ô tô trên 30 chỗ ngồi, xe buýt, xe tải (có trọng tải trên 3,5 tấn), xe đầu kéo sơ-mi rơ-moóc, xe chuyên dùng, xe kéo rơ-moóc, ô tô kéo xe khác không được phép chạy quá 100 km/h, kể cả trường hợp có biển hạn chế tốc độ có giá trị lớn hơn 100 km/h. (Trích dự thảo thay thế Thông tư 13) |
>> Đua tốc độ trên đường cao tốc
Theo Duy Trần (Báo Giao Thông)